Cơm hến
Cơm hến là món ăn bình dân đầy ấn tượng của Huế. Những con hến nhỏ ở cồn hến (Vỹ Dạ) luộc chín, bỏ vỏ lấy nhân - có người gọi làmặt hến - bé tí xíu, là vị chính của cơm hến, phụ gia là ruốc mặn mà, ớt cay sè, mè đậu thơm phức, tóp mỡ béo ngậy, rau sống là tổng hợp những khế chua, chuối cây, bạc hà, giá, rau thơm tươi ngon hấp dẫn. Cách dọn cơm hến như trò chơi buôn bán của trẻ con, mỗi thứ một ít đủ màu sắc, tất cả cho vào tô, chan nước hến trắng đục, ăn rất ngon. Nấu cơm hến đơn giản, vật liệu rẻ tiền nhưng lại vô cùng công phu bởi nhiều gia vị linh tinh nên đòi hỏi người phụ nữ phải chịu khó. Đây là món ăn của nhà nghèo nhưng lắm người giàu sang khoái khẩu. Thì ra, thức ăn hợp khẩu vị quan trọng hơn sự phân biệt rẻ, đắt. Tới Huế đừng quên nghỉ chân ở đường Trương Định để thưởng thức món cơm hến thơm ngon và cay ríu cả lưỡi. Một địa điểm khác cũng không kém phần nổi tiếng là Cồn Hến (Vỹ Dạ) dù xa hơn một chút nhưng vẫn được du khách sành ẩm thực tìm đến.
Cơm âm phủ:
Cơm âm phủ còn có tên gọi là cơm thịt nướng hay cơm trộn. Cơm âm phủ là món ăn bữa chính, nhiều sắc màu ngon mắt, gồm một dĩa cơm trắng, rắc thêm ít tôm chấy hồng ngon ngọt, một vài lát thịt nướng mặn mà thơm nức lòng, dưa gang bóp chua ngọt, nước mắm ớt chanh tỏi cay cay, trộn đều, ăn "ngậm mà nghe" theo kiểu nói của các mệ Huế. Tên gọi “âm phủ” cũng có xuất xứ của nó. Các bậc tiền bối vào hàng bảy tám mươi tuổi ở Huế cho biết cơm âm phủ là cách nói chơi, nói chữ của những người Huế xưa kia chỉ về món cơm bán gánh ở khu vực “bên sân vận động” - lúc ấy còn đầy rẫy bờ bụi, lau lách, gò mả. Đường sá, trục lộ chỉ được trải đất đá mấp mô, đèn đường chưa có. Ban đêm, dân chúng hay lính tuần đi lại muốn soi đường phải dùng ngọn đèn dầu nhỏ hay cái đèn lồng cầm trên tay hoặc treo một đầu quang gánh.
Ở chính khu vực này hay tập trung những hàng gánh bán rong các món ăn bình dân mà đặc biệt nổi bật là món cơm ăn kèm thịt nướng, chả… cắt nhỏ mà người ta hay gọi là cơm thịt nướng hay cơm trộn - cái tên này cho đến bây giờ, vẫn là tên gọi đúng của món ăn - chuyên phục vụ giới khách thương, dân sông hồ, thợ thầy lao động… từ khoảng chập choạng tối cho đến thật khuya. Mỗi hàng gánh này đều có treo một hoặc hai ngọn đèn dầu hay đèn lồng để cho dù đi lui, đi tới hay ngồi yên tại chỗ đều tạo thành những đốm lửa chập chờn, khi mờ khi tỏ. Thêm nữa, rải rác trong bóng đêm dày đặc là những ánh lửa đỏ lừ của những nén nhang cúng vong, cúng tà, đốt vía…mà người dân Huế có tục lệ cứ chiều tối xuống là hay đốt lên khá nhiều rồi cắm la liệt ngoài thềm cửa trước nhà, ven hàng rào, ven ngõ, góc tường…và cắm cả một bên quang gánh, gọi là đốt phong long khi ế khách. Bối cảnh âm u còn được "trang sức " thêm bằng những chấm sáng lạnh lẽo chập chờn bay lên bay xuống của những bầy đom đóm. Còn thực khách, thường là không nhiều, mặt mày mờ ảo, lui cui ngồi ăn lặng lẽ trong bóng đêm dày đặc. Cảnh giống cõi âm thì cơm sao không phải “cơm âm phủ”. Tên gọi “cơm âm phu” bắt nguồn từ đó. Hiện nay, ở Huế, những con đường đã trải nhựa, quán xá mọc lên thay cho những gánh hàng. Trên các biển hiệu, người ta không thấy đề “cơm âm phủ”, nhưng hỏi ra ai cũng biết.
Cơm muối Huế
Các nhà ẩm thực đã không biết xếp món cơm muối Huế vào danh mục các món ăn cung đình hay dân dã vì nó đã được cả vua chúa lẫn thường dân ưa thích. Dù thế nào thì món ăn này cũng được thực hiện một cách cầu kỳ, khá công phu. Gạo là phải gạo thơm, dẻo; phơi cho thật khô. Nước nấu cơm phải là nước mưa, tệ lắm cũng là nước múc giữa dòng sông Hương trong vắt. Nhưng quan trọng nhất là muối phải được chế biến thành những món đặc biệt đầy hương vị và màu sắc. Muối trong món ăn này là muối sống, hạt lớn, có góc cạnh - dùng để muối cá, muối dưa. Cho muối vào om đất đã được đun nóng để rang. Dùng bẹ chuối đảo đều, những hạt muối sống nổ lách tách trong om, vỡ mịn màng. Mùi tanh của muối sống theo hơi nóng bay đi, thay vào đó là mùi thơm của muối chín. Sau đó muối được trộn thêm gia vị để có nhiều món muối cho ta bức họa đầy hương sắc: cay, chua, ngọt, mặn, béo, bùi của trần gian : Đĩa muối trắng ngà thơm lựng là muối om tỏi. Đĩa muối có màu vàng sậm là muối om riềng. Đĩa muối có màu đen trắng là muối om tiêu. Đĩa muối có màu đen trắng vừa ươn ướt đó là đĩa muối tiêu chanh. Đĩa muối có màu vàng mơ là muối om trộn đậu phộng giã mịn. Với trái dầu lai rang vàng trở thành muối dầu lai béo bùi. Muối trộn với mè, mè nhiều hơn muối là muối mè. Muối trộn với con khuyết gọi là muối khuyết. Muối trộn với ớt chín cho ta dĩa muối màu đỏ tươi, hấp dẫn.
Muối trở thành màu xanh khi trộn chung với khế. Muối có sắc huyền đen của vừng đen vừa béo vừa bổ. Với củ sả bằm nhỏ, ruốc và thịt heo sẽ cho ta muối sả ăn ngon đến nhức răng. Trong các loại muối này, muối sả là thứ cao cấp vì có thịt heo hoặc thịt bò.Món này khi rang vàng, để nguội, cho vào keo, ăn dần, ngon nhất là những ngày mưa, lạnh. Muối sả không những ngon vì mùi thơm của sả, vị ngọt béo của thịt mỡ, hương vị đậm đà của ruốc, vị mặn mòi của muối còn thấm thía tình yêu cha mẹ, hoặc vợ hiền trong những phút giây chăm chút chế biến. Ngày nay cơm muối Huế đang được một vài nhà hàng lớn ở Huế thực hiện để phục vụ khách phương xa cái món ăn độc đáo, đòi hỏi bàn tay nội trợ tài hoa, đã có từ thời xa xưa. Thời Huế còn là kinh đô Đại Việt, các "mệ" (chỉ người trong hoàng tộc), các quan triều đình thường thết khách sang, khách quý bằng cơm muối để thể hiện lòng quý trọng của mình.
Nem nướng Cần Thơ:
Cách đây khoảng 40 năm, Cái Răng (Cần Thơ) và Thủ Đức (Sài Gòn) là hai nơi nổi tiếng với món nem mà đặc biệt là nem nướng. Nhờ nằmở ngoại ô nên khách đến ăn ngoài việc tận hưởng hương vị độc đáo của món ngon, vừa đón nhận không khí trong lành của những thị trấn còn mang dáng dấp miệt vườn. Để làm nem nướng, phải chọn nạc heo vừa mới xả thịt còn bốc hơi nóng. Thịt thấm sạch máu bằng khăn the hoặc giấy xốp, rồi lạng bỏ gân, bầy nhầy. Dùng que nhỏ, nhọn xăm đều miếng thịt để máu tươm ra, thấm khăn the lượt nữa cho thật sạch (nếu là thịt phi-lê thì khỏi qua công đoạn này) rồi xắt lát mỏng ướp tỏi nướng vàng, tỏi tươi băm nhỏ, nước mắm ngon cô đặc, bột ngọt...
Khoảng nửa giờ sau, gia vị thấm đều, cho thịt vào cối quết, thêm chút đường và tiêu xay. Khi thịt quết chuyển màu trắng, dẻo, quấn đầu chày, người ta vo viên xiên vào que, đem nướng trên lửa than cháy yếu đến khi thịt chín vàng đều thì thoa mỡ hành. Cũng như một vài món ăn khác, người Nam Bộ ưa dùng rau thơm gói bánh tráng. Nem nướng lại càng cần rau thơm, chuối chát, dưa leo, khế... hơn bao giờ hết, và nó lại càng cần một món ăn kèm khác là bánh hỏi. Cầm một nửa chiếc bánh tráng nem, phải là tay sành mới gói thật điệu nghệ sao cho nem nướng, rau thơm, xà lách, dưa chua, bánh hỏi nằm đều, suôn, thon vừa, gọn thành một cuốn đẹp mắt. Cuốn bánh chấm nước mắm tỏi chanh đường hay tương nếp. Tuy là một món đơn giản, nhưng công phu pha chế không phải ai cũng làm được. Về sau, người ta ưa dùng tương xay thay loại nước chấm truyền thống này. Cũng như nước mắm chanh đường, tương xay được pha chế theo một công thức gia truyền. Chính thứ nước chấm này quyết định sự ngon lành của món ăn.