BỆNH HÔI MIỆNG Posts by : STEVE THAI

   Hôi miệng, tiếng Mỹ thường gọi là bad breath hoặc danh từ trong chuyên khoa gọi là Halitosis.  Chữ Halitosis nguồn gốc từ tiếng Latin-- halitus là "hơi thở" và osis là "tình trạng".  Tình trạng này có thể xảy ra với mọi người ở mọi lứa tuổi và có thể trầm trọng đến độ bị mọi người xa lánh.  

    Bạn có biết . . .
   ° 50 tới 65% người lớn (trong 85 triệu người Mỹ) bị chứng bệnh hôi miệng kinh niên. 
   ° Mỗi năm người Mỹ chi tiêu khoảng 1 tỷ Mỹ kim để mua thuốc súc miệng, kẹo the hoặc kẹo cao su để giữ cho thơm miệng.
   ° Thuốc nước súc miệng (mouthwashes) chỉ hữu hiệu trong khoảng 10-15 phút tới 1 giờ đồng hồ là cùng.
   ° Đa số các loại thuốc súc miệng đều chứa chất alcohol có thể kích thích những mô phần trong miệng (Irritation of oral tissues) làm cho bệnh hôi miệng thành nặng hơn.

   Tất cả mọi người chúng ta không ít thì nhiều đều bị chứng bệnh hôi miệng.  Có nhiều lúc chúng ta phải tiếp xúc với một người mắc bệnh hôi miệng thì cảm thấy khó chịu mà phải lùi bước lại hoặc phải ngoảnh mặt đi hướng khác.  Nếu người thân yêu của mình mắc phải chứng bệnh đó thì ta thấy rất khó nói vì sợ đụng chạm tự ái mất lòng.  Có người tự giác, đến than thẳng với bác sĩ rằng mình bị hôi miệng.  Thông thường những người bị bệnh hôi miệng đều không biết miệng mình bị hôi cho đến khi người ngoài nhắc khéo.  Nhiều người cảm thấy miệng mình chỉ bị hôi vào lúc ban sáng khi thức dậy; hoặc khi đói bụng; hoặc sau khi ăn một bát bún riêu pha chút mắm tôm; hút một điếu thuốc lá; uống 1 ly cà phê v.v... Cũng có khoảng độ nửa số người cho rằng bệnh hôi miệng gây ra bởi chứng bệnh đau bao tử, đau cuống họng hoặc đau phổi.  Để hiểu rõ thêm về chứng hôi miệng, bài viết này sẽ trình bày và dẫn giải những lý do đưa tới bệnh hôi miệng và cách thức điều trị căn bệnh này.

   Nguồn gốc gây ra chứng hôi miệng
   Các mùi gây khó chịu trong miệng có thể do nhiều nguồn gốc khác nhau trong cơ thể đưa tới.  Bệnh hôi miệng có thể phát khởi từ khoang miệng (oral cavity), hốc mũi (nasal passages), xoang mũi (sinus cavity), đường khí quản (upper respiratory tract), hoặc phần trên của đường tiêu hoá (upper digestive tract).  Những kiến thức thâu thập từ các sách báo Y & Nha Khoa cho thấy 85% lý do hôi miệng đều phát xuất từ khoang miệng, 15% còn lại phát xuất từ đường hô hấp, đường tiêu hoá, hoặc những bệnh như viêm gan (cirrhosis), tiểu đường (diabetes), suy thận (kidney failure), kèm theo những thực phẩm, thuốc men, thuốc lá chúng ta dùng mỗi ngày. 

   Lý do chính gây ra bệnh hôi miệng là chất lưu huỳnh (sulfur) tạo ra do sự thối rã của vi trùng (bacterial putrefaction).  Trong khoang miệng, chúng ta có hơn 300 loại vi trùng sống tương trợ lẫn nhau với những cấu tạo phức tạp chung quanh những mô bao bọc chân răng, lưỡi, và xương hố răng.  Đa số những vi trùng gây biến chứng bệnh hôi miệng đều thuộc loại "vi trùng kỵ khí, Gram-negative" (anaerobic G- bacteria).   Những vi trùng này chuyển hoá chất amino acid trong thực phẩm và những chất peptide thành những khí chất phụ khác (gas by-products).  Nghiên cứu cho thấy hydrogen sulfide (H2S), methyl mercaptan (CH3SH), dimethylsulfide (CH3SCH3), hoặc dimethyl disulfide là những chất sulfur dễ bay hơi có mùi hôi, và cũng là chủ yếu trong chứng hơi thở hôi.   Những khí chất nêu trên còn được gọi chung trong sách vở là "hợp chất khí sulfur" (volatile sulfur compounds, VSCs).

   Khi nói tới khoang miệng, chúng ta cũng nên biết tầm quan trọng của nước bọt/nước miếng.  Nước miếng có rất nhiều công dụng, chẳng hạn như có tính kháng vi khuẩn (antibacterial), kháng siêu vi trùng (antivirus), kháng trị nấm (antifungal), chất lượng dung hoà (buffering capacity), và tẩy sạch khoang miệng (mechanical cleansing of the oral cavity).  Tóm lại, nước miếng được coi như là một loại xà bông rất tốt trong miệng, có tính chất sát trùng.   Đồng thời nước bọt còn có công dụng hoá tan (solvent) hoặc tan diệt những phẩm chất bay hơi nặng mùi (malodorous volative compounds).  Nếu những chất nặng mùi này được hoà tan trong nước miếng thì sự cảm nhận mùi hôi cũng được giảm đi.  Nhưng nếu mực nước miếng bị ngưng chặn hoặc giảm thiểu, thì lượng sulfur sẽ tăng trưởng và mùi hôi sẽ dễ cảm nhận hơn.  Phần nhiều chúng ta nuốt hết nước miếng cho khô miệng trước khi hát hoặc phát âm.  Bởi thế, chúng ta rất dễ dàng nhận ra những người bị bệnh hôi miệng khi họ đang phát biểu ý kiến "thao thao bất tuyệt".  Cũng nên biết là lượng nước miếng tiết ra bị giảm đi gần phân nửa vào lúc ban đêm khi đi ngủ.  Vì lý do này mà nhiều người nhận thấy mình chỉ bị hôi miệng vào lúc ban sáng khi vừa thức dậy.

   Những lý do gây nên mùi hôi trong khoang miệng 
   1. Bệnh nướu răng/bệnh nha chu (Periodontal diseases)
   Bệnh viêm lợi/nướu răng là nguyên nhân đầu tiên và quan trọng nhất gây ra mùi hôi trong miệng.  Khi nướu răng đã bị nhiễm độc và đưa tới tình trạng xương hố răng bị hư hoại thì tạo nên những hố rỗng sâu rộng dưới nướu răng và xương hàm.  Những hốc rỗng này là nơi chứa đựng nhiều loại vi trùng kỵ khí luôn xung đột với những kháng tố do cơ thể đưa tới.  Đồng thời, những loại vi trùng Gram  đó cũng sản xuất ra những chất sulfur đưa tới tình trạng hôi miệng kinh niên (chronic bad breath) nếu căn bệnh nướu răng bị kéo dài.  Thêm vào đó, nướu răng lúc nào cũng bị chảy máu và tụ mủ dưới nướu răng làm cho mùi hôi càng thêm nồng! 

   2. Lở loét trong miệng (Aphthous ulcers; traumatic ulcers; stomatitis)
   Các tình trạng làm viêm khoang miệng -- vì bệnh hoạn, tinh thần hoặc cơ thể bị căng thẳng, do uống thuốc, hay do cơ thể thiếu sinh tố dinh dưỡng như Vitamin A, B12, chất sắt (Iron), chất kẽm (Zinc) -- cũng dẫn tới mùi hôi vì khi miệng, môi, lưỡi bị lở loét hoặc bị nứt da thì thức ăn và vi trùng sẽ bám vào những chỗ nứt lở này.

   3. Sâu răng hoặc răng bị nhiễm trùng (Dental caries; dental abscess)
   Thông thường, vết sâu răng nhỏ ít khi nào đưa tới tình trạng hôi miệng.  Ngoại trừ khi răng bị sâu nặng hoặc bị mẻ khoảng lớn thì đó là nơi vi trùng và những vụn thức ăn tụ tập và bị ứ đọng lâu ngày và sẽ gây ra mùi hôi hám.   Sâu răng dài hạn còn đưa tới sự mục nát lớp tuỷ răng (necrotic pulpitis).  Ở giai đoạn này, người bệnh có thể lên cơn sốt, sưng mủ vì bị nhiễm trùng và nốt mủ có thể thấy trên làn mặt nướu răng (sinus tract).

   4. Những khuyết điểm trong việc trám răng hoặc khi đeo bộ răng giả (faulty restorations; Mouth prostheses)
   Khi bị sâu răng thì chúng ta phải tìm tới nha sĩ để trám hoặc bao bọc mặt răng (crown).  Nhưng nếu không cẩn thận, những vết trám bằng chì (amalgam) hoặc bằng lớp men trắng (resin) bị lồi lõm hoặc bị nhô ra (overhang) thì thức ăn sẽ dễ dàng bám vào những cạnh đó và bị trú đọng lâu ngày.  

   Những chiếc mão răng (crown)/cầu răng cố định (Fixed bridge) bị hở hoặc có những hình dạng 'mập mạp' khác thường cũng có thể làm cho thức ăn bám dính lâu ngày hoặc cản trở gây khó khăn trong việc gìn giữ vệ sinh răng miệng mỗi ngày.  Những bộ răng giả tháo rời (removable prostheses) cũng là chỗ làm cho các vụn thức ăn bám dính và có thể bốc mùi hôi sau nhiều ngày.  Nếu chúng ta đeo bộ răng giả lâu ngày mà không gỡ ra mỗi đêm theo như lời khuyên dặn, hoặc không ngâm vào nước tẩy (denture cleanser), hoặc quên chà cọ bộ răng giả bằng kem đánh răng mỗi ngày thì nó cũng có thể là chỗ cho vi trùng hoặc nấm (Fungus) bám và trú ngụ.  Khổ hơn nữa nếu quí vị nào phải cần dùng tới chất keo/chất cồn để giữ cho bộ răng giả không bị lung lay hoặc rớt ra thì càng nên tháo ra và rửa sạch mỗi ngày. 

   5. Khô miệng (Dry Mouth; Xerostomia)
   Những nguyên nhân đưa tới tình trạng giảm thiểu nước miếng như thuốc men, nóng sốt, trị bệnh bằng tia phóng xạ (radiation therapy) chung quanh vùng quai hàm mặt, hoặc hít thở bằng miệng.  Những thuốc chống nghẹt mũi (antihistamines), trị dị ứng (như thuốc Claritin, Allegra, Zyrtec decongestant) sẽ làm cho mũi và miệng bị khô khan.  Các thuốc chữa bệnh tâm thần (anxiolytics, antidepressants, antipsychotics) và thuốc chữa trị bệnh cao áp huyết (diurectics) cũng có thể đem lại ảnh hưởng ít nhiều tới những tuyến nước bọt.  Sự giảm xuất nước bọt cũng có thể xảy ra cho người cao niên vì những tuyến nước bọt bị bóp nhỏ hoặc teo đi theo tuổi tác.  Bởi vậy, càng lớn tuổi bao nhiêu thì số lượng và phẩm chất nước bọt càng bị giảm thiểu.  Dù bất cứ nguyên nhân nào đi nữa, khi miệng chúng ta bị khô thì mùi hôi trong miệng sẽ dễ cảm nhận hơn.  Nghiên cứu còn cho thấy chứng khô miệng cũng làm tăng thêm phần sản xuất vi trùng tiết chất sulfur trong miệng.  Ta cũng nên để ý tới các dấu hiệu và triệu chứng khô miệng bao gồm sự giảm vị giác (decrease of taste sensation), khó nuốt (difficulty in 
swallowing), khát nước, viêm niêm mạc miệng (inflamed oral mucosa), và bị nhiều răng sâu (rampant caries) nhất là ở gần vùng cổ răng.

   6. Thực phẩm
   Người Việt có nhiều món ăn thuần tuý rất ngon và cũng rất ư là . . . NỒNG, như lẩu mắm ruốc, mắm tôm, khô mực, khô cá thiều, v.v....  Những món này lưu trữ trong miệng và trong hơi thở rất lâu, nên khi chúng ta ợ lên thì ôi thôi cũng rất là. . . HÔI!  Cũng có một số chất biến dưỡng từ thức ăn được hấp thụ qua đường máu, rồi thải ra ngoài cơ thể qua đường phổi, như hành, tỏi, hoặc rượu.  Bởi vậy khi hơi thở tiết ra những chất đó thì người đối diện sẽ ngửi được ngay!

   Trái lại nếu chúng ta để bụng đói hoặc khát nước thì miệng cũng bị hôi.  Vì khi ăn, những tác động nhai cắn sẽ làm cho nước miếng được tiết ra nhiều, rửa sạch răng và lưỡi. 

   7. Cà phê và thuốc lá  
   Chúng ta để ý thấy miệng bị hôi sau khi uống một ly cà phê vì mùi vị đó còn bám dính trên mặt lưỡi và những mặt răng.  Nếu muốn thử, sau khi nếm 1 ly cà phê ta hãy đứng trước gương, lè lưỡi dài ra, thì sẽ thấy mặt lưỡi đổi thành màu đen hoặc nâu vì chất caffeine bám chặt và bao phủ đầy mặt lưỡi.  Nếu dùng dao cạo lưỡi hoặc bàn chải chùi trên mặt lưỡi, thì ta sẽ nhổ ra những chất đạm trong cà phê, mặt lưỡi sẽ trở lại hồng hào, và mùi hôi xoá dịu ngay.  Cà phê giúp cho mình tỉnh ngủ, nhưng ảnh hưởng của nó cũng làm cho số lượng nước miếng bị giảm thiểu làm cho miệng bị khô khan. 

   Khi đề cập tới thuốc lá, thì hút thuốc loại nào cũng làm hôi miệng. Chất nicotine trong điếu thuốc lá sẽ bám trên mặt răng và lưỡi; lâu ngày sẽ làm cho răng, lưỡi bị thâm nâu (nicotine stain) và mặt răng trở nên nhám, tạo nên cơ hội thuận tiện cho trăm loại vi trùng bám vào chân răng và mặt lưỡi (bacterial attachment) và tiến tới sự hư hoại trong khoang miệng. Hơn nữa, những tình trạng nguy cơ khác có thể xảy đến những người nghiện thuốc lá như là bệnh nướu răng đưa tới sự rụng răng, ung thư miệng, cuống họng, phổi, v.v....

   8. Răng cấm mọc ngầm (Impacted wisdom teeth)
   Những chiếc răng khôn/răng cấm cũng gây phiền toái cho chúng ta không ít thì nhiều vì những chiếc răng đó ít khi mọc thẳng và nó nằm ở vị trí trong cùng của khoang miệng.  Tại Mỹ, những chiếc răng cấm/răng khôn đó đã được “thanh toán” nhổ bỏ từ lúc 16-25 tuổi.   Nhiều bộ răng cấm chỉ mọc lên 1/3, 1/2, hoặc 2/3 mà thôi vì nó bị cấn bởi xương hàm hoặc nướu răng che phủ.  Người bệnh nhân sẽ cảm thấy đau nhức, sưng hàm, lên cơn sốt, nổi hạch hoặc không mở miệng lớn được khi vùng răng cấm bị nhiễm trùng do thức ăn bị ứ đọng lâu ngày.     Nói về vấn đế này không có nghĩa là tất cả những chiếc răng khôn đều phải nhổ!  Tốt hơn hết, chúng ta nên thao khảo ý kiến của vị nha sĩ gia đình của mình.

   Chuẩn bệnh
   Nếu định bệnh theo tính cách chủ quan thì ta có thể tự liếm trên cổ tay của mình hoặc luồn sợi chỉ nha khoa qua răng rồi đem lên mũi ngửi để tự xét đoán.  Cách này không được chính xác mấy ngoại trừ chính mình tự giác và chấp nhận rằng mình có bệnh.  Nhiều lúc chính những người thân thuộc, bạn bè, hoặc anh chị em 'âm thầm mách bảo' cho chúng ta biết bệnh.  Nghe lúc đầu thì mình cảm thấy mắc cỡ hoặc bị chạm tự ái, nhưng nghĩ lại, thì chỉ có những người thương yêu lo lắng và gần gũi với mình mới dám bạo dạn 'nhắc khéo' được.

   Nhìn về khía cạnh khách quan, hiện tại trên thị trường có bán 2 loại máy dùng để chuẩn đoán mùi hôi:  máy PerioTemp và máy Halimeter.  Tuy không chính xác 100%, máy PerioTemp được dùng để đo nhiệt độ trong hốc răng.  Nhiệt khí là sản vật phụ trong tình trạng bị viêm.  So với nhiệt độ bình thường trong cơ thể, khi mực độ lên cao có nghĩa là sự tăng trưởng của vi trùng và sự tàn phá các mô và tế bào trong người cũng tăng cường.  Máy Halimeter là dụng cụ đo lường chất khí sulfur khi ta thở ra.  Ống máy thu hút hơi thở của người bệnh và đo lường chất hydrogen sulfide và chất methyl mercaptan trong hơi khí.  Khi số lượng đo 150 parts per million (ppm) hoặc cao hơn thì ta biết chắc chắn người đó mắc chứng hôi  miệng và cần phải chữa trị.  

   Bởi vì 85% nguồn gốc gây ra mùi hôi đều nằm trong khoang miệng nên việc khám răng và miệng lưỡi phải được quan tâm hàng đầu.  Khi đi khám răng, chúng ta cũng nên hỏi người nha sĩ coi mình có bị bệnh nướu răng hay không.  Các công cuộc nghiên cứu cho thấy sự quan hệ giữa bệnh viêm nướu răng, bệnh nha chu và tình trạng hôi miệng.  Nếu đang bị bệnh nướu răng, thì ta nên chữa trị ngay chứ đừng trì hoãn vì căn bệnh sẽ tiến triển nặng hơn và có thể đưa tới sự rụng răng hoặc lây qua những vùng khác.  Người nha sĩ có thể chữa trị bệnh nướu răng cho bạn hoặc gửi tới những nha sĩ chuyên khoa về bệnh nướu răng (Periodontist).  Những tình trạng như răng cấm mọc ngầm, kẽ răng tách hở, vết trám lồi lõm nhô ra hoặc không được mịn màng cũng phải được để ý chữa trị.  

   Trong phần chuẩn bệnh, ta cũng nên cho người bác sĩ/nha sĩ biết bệnh hôi miệng của mình bắt đầu từ lúc nào, thường trực (constant) hoặc bất thường lúc có lúc không (intermittent).  Đồng thời, ta cũng nên cho biết thói quen ăn uống của mình, có hút thuốc lá không, có dùng thuốc tây/ta chữa bệnh, và liệt kê các bệnh đã hoặc đang chữa trị.  Cách tốt nhất là chúng ta nên biên vào một mảnh giấy và mang theo trong người mỗi khi đi khám bệnh - tất cả bệnh mình đang có và các loại thuốc đang dùng ở nhà, lượng thuốc, và cách thức dùng mỗi ngày.  Đây cũng là thói quen tốt chúng ta nên thực hành và cần thiết khi gặp những trường hợp khẩn cấp.

   Chữa Bệnh
   Sau khi đã tìm ra được nguyên nhân chính gây ra bệnh hôi miệng thì cách chữa trị rất là dễ dàng.  Điều tiên quyết là việc vệ sinh răng miệng mỗi ngày phải được nghiêm túc.  Hiệp Hội Nha Khoa Hoa Kỳ khuyên chúng ta nên đánh răng ít nhất hai lần mỗi ngày, đồng thời làm sạch các kẽ răng bằng cách dùng chỉ răng (dental floss) ít nhất mỗi ngày 1 lần.  Chúng ta nên tập đánh hoặc nạo mặt lưỡi, vì lưỡi cũng là chỗ thức ăn nước uống hay bám vào nhiều.  Chải răng, lưỡi thật kỹ trước khi đi ngủ ban đêm và vào buổi sáng thức dậy cũng làm chứng hôi miệng giảm đi.  Ta cũng nên dành thời giờ đi khám răng ít nhất một năm 2 lần để chà rửa răng.  Đây cũng là dịp thuận tiện để ta biết có bị sâu răng hoặc bị bệnh nướu răng hay không.  Nếu toàn diện xương hố răng có độ sâu (6 mm hoặc nhiều hơn), người nha sĩ sẽ nạo chân răng (deep cleaning) hoặc gửi ta đi tới những nha sĩ chuyên khoa về nướu răng để chữa trị. 
 
   Nếu phải đeo bộ răng giả, thì cách vệ sinh cũng cần phải áp dụng mỗi ngày.  Theo như trình bày ở trên, bộ răng giả của chúng ta làm bằng chất nhựa nên tạo cơ hội thuận tiện cho thức ăn và vi trùng bám vào gây nên mùi hôi.  Vì thế, ta không nên đeo bộ răng giả trong nhiều giờ nhất là khi đi ngủ.  Chúng ta cũng nên chải rửa sạch trong ngoài và ngâm bộ răng giả trong nước xà bông hoặc chất nước sát trùng (Efferdent, Polident, etc.) mỗi đêm.  Trong miệng thì chúng ta nên dùng bàn chải thật mềm hoặc khăn bông nhỏ để lau chà vòm nướu.

   Hiện nay chưa xác định được là nước súc miệng nào tốt và hữu hiệu nhất vì chúng chỉ đơn thuần che dấu tạm thời mùi hôi miệng từ 10-15 phút tới 1 tiếng là hết.   Điểm quan trọng là phần đông nước súc miệng đều chứa chất alcohol có thể làm miệng bị khô, lở loét và đưa tới tình trạng nặng hơn.  Những tác hại khác trong việc dùng thuốc nước như sự thay đổi màu răng, lưỡi thành nâu (i.e. Peridex stain) hoặc làm thay đổi vị giác (altered taste sensation).

   Về chứng khô miệng, hiện tại có nhiều dược phẩm có thể dùng để kích thích tuyến nước bọt hoặc các chất thay thế (salivary substitutes) giúp cho người bệnh được thoải mái.  Điều tiên quyết là ta nên uống nhiều nước và hạn chế những thức uống có chất caffeine như cà-phê, nước ngọt, v.v... Nếu phải dùng thuốc men để chữa trị những bệnh khác trong cơ thể (áp suất cao, tâm thần, nghẹt mũi) trong thời gian lâu ngày, thì ta có thể dùng nước bọt nhân tạo (như Xero-Lube, Salivart) để tránh tình trạng miệng bị khô khan.  Một phương cách khác là ta có thể nhai kẹo dẻo không đường hoặc kẹo cao su (sugarless chewing gum).  Đây là phương pháp tự nhiên kích thích tuyến nước bọt giúp loại bỏ màng bám lưỡi, do đó làm giảm mùi hôi.

   Kết Luận
   Nguồn gốc chính gây ra bệnh hôi miệng nằm trong khoang miệng, hàm răng và mặt lưỡi.  Tuy tình trạng hôi miệng của mình có thể làm cho mọi người xa lánh, nhưng đừng vì đó mà chúng ta phải thất vọng buồn chán và bỏ cuộc.  Chúng ta nên để ý và chữa trị sớm.  Theo như một câu nói khôi hài của một vị bác sĩ trong buổi thuyết trình, “Hơi thở hôi còn đỡ hơn là không còn hơi thở”!    

   Trái tim rung động nhịp nhàng
   Nhẹ nhàng hơi thở tỏ bày yêu em.
   Thương em thương cả nụ cười
   Hàm răng đầy đặn thật là dễ thương!!

» Related Articles: